Không gian trưng bày chuyên đề 15 năm tù Côn Đảo
Chào các bạn, trong chuyến tham quan kỳ trước chúng ta đã được tham quan Ngôi nhà lưu niệm thời niên thiếu của Chủ tịch Tôn Đức Thắng nơi sinh thành và dưỡng dục nên chất người Tôn Đức Thắng. Năm 1906 sau khi rời gia đình lên Sài Gòn học nghề, làm thợ; bôn ba khắp Châu Âu, rồi trở về Việt Nam lập gia đình và tham gia hoạt động cách mạng cho đến khi bị bắt và tù đày nơi địa ngục trần gian – nhà tù Côn Đảo (Cô Lôn).

Trong hơn 90 năm tuổi đời, 70 năm hoạt động Cách mạng, Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã mất hơn 15 năm tù đày ở nhà tù Côn Đảo. Năm 1930, với án 20 năm tù khổ sai, Tôn Đức Thắng với số tù 5289.20TF bị lưu đày ra Côn Đảo. Từ đó đến ngày 23/9/1945, Tôn Đức Thắng đã sống và trãi qua các chế độ tù đày của 5 đời chúa đảo.
Côn Đảo là quần đảo thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, gồm 16 hòn đảo lớn, nhỏ với tổng diện tích gần 74 km², địa hình chủ yếu là đồi núi. Năm 1861, thực dân Pháp chiếm Côn Đảo và lập ra hệ thống nhà tù vào năm 1862, khoảng 200.000 người đã bị giam cầm kể từ đó, Côn Đảo trở thành “địa ngục trần gian” trong suốt 113 năm. Dưới con mắt của thực dân, Côn Đảo là một nơi lý tưởng, đáp ứng tốt những yêu cầu đối với một nhà tù bởi Côn Đảo bốn bề là biển, cách xa đất liền, không có phương tiện người tù khó bề trốn thoát, người ở bên ngoài cũng không có cách nào cứu thoát người tù. Ở nơi hải đảo này, những người cách mạng sẽ bị cắt đứt mọi quan hệ với gia đình, xã hội và quần chúng nhân dân, với đoàn thể, với các phong trào yêu nước.
Khi ở nhà tù Côn Đảo, Bác Tôn đã nhanh chóng bắt liên lạc với những người tù chính trị, tham gia thành lập“Chi bộ nhà tù Côn Đảo”vào năm 1932 do đ/c Nguyễn Hới làm Bí Thư. Cùng với Chi bộ, Tôn Đức Thắng đã thành lập ra “Hội cứu tế tù nhân” đồng thời tổ chức các lớp học chính trị trong nhà tù được đ/c Trần Văn Giàu trực tiếp đứng lớp, từ đó biến nhà tù thành “trường học Cách mạng”.
Khi ở Sở Tẩy, Bác Tôn còn nhận nhiệm vụ truyền tin tức đi các khám giam bằng cách sữ dụng cây chổi tre, với cán chổi được khoét rỗng làm nơi bí mật cất giấu tài liệu. Công tác giao liên này đóng vai trò quan trọng trong việc giúp chi bộ tổ chức các chuyến vượt ngục.
Từ 1930 -1945 Bác Tôn đã hai lần vượt ngục không thành, lần thứ nhất vào 4/1935, Bác bị bắt giam vào xà lim số 15 – một trong 20 xà lim ở Banh I dùng để phạt giam biệt lập người tù và lần thứ hai vào 4/1945, lần này người bị phạt giam ở Sở Lưới.
Sở Lưới nơi tù nhân bị bắt đan lưới và đánh bắt cá, tại đây Bác Tôn nhận nhiệm vụ lái cano và sửa chữa tàu, công việc này đã giúp Bác Tôn nhận được tin tức từ đất liền và cây bàng ở Sở Lưới là nơi người dùng làm hòm thư bí mật để cất giấu tài liệu.
Ở Sở Lưới Bác Tôn còn tự tay làm Cây bút bằng xương cá và cây dương nước. Cây bút là hiện vật duy nhất còn lại do chính Bác Tôn làm tại nhà tù Côn Đảo vào năm 1934.
Những ngày mới ra côn đảo, Bác nghĩ mình đã khổ không nên bắt vợ con khổ theo nên Bác đã viết thư cho vợ khuyên đi lấy chồng khác. Ít lâu sau Bác nhận được thư, thư viết rằng: “Anh Tôn Đức Thắng thân mến, xin báo để anh biết em đã đi lấy chồng. Chồng của em là Tôn Đức Thắng, người ở Long Xuyên. Vợ chồng em đã có với nhau ba con: hai gái, một trai, đứa con trai chẳng may sớm qua đời. Em trọn đời sống cùng chồng em, mặc dù anh ấy đang phải tù đày nơi hải đảo xa xôi”. Đọc xong thư Bác sung sướng đến nổi cứ áp chặt bức thư vào ngực.
Cách mạng tháng 8 thành công, ngày 23/9/1945, Xứ ủy Nam Kỳ cử đoàn tàu ghe ra đón hơn 2000 tù chính trị Côn Đảo trở về đất liền trong đó có Tôn Đức Thắng, đánh dấu sự trở lại của Người đối với phong trào Cách mạng Việt Nam sau 15 năm tù tại nhà tù Côn Đảo.
Nói đến chế độ lao tù ở nhà tù Côn Đảo, chúng ta không thể không nhắc đến Hầm Xay Lúa - nơi khét tiếng với việc sử dụng lao động khổ sai để tra tấn người tù. Đây là khu vực nhốt những người tù thuộc loại “ Bất trị”, rất “ nguy hiểm” cho nhà tù. Nơi đặt cối xây lúa là một hầm giam, tường đá dày xây kín ba mặt, bụi bặm, oi bức và ngột ngạt. Cối xây lúa được làm bằng thùng rượu vang cưa đôi trong lèn đất sét và răng cối phải sáu người xây mới nổi. Thời gian làm việc khắc nghiệt từ 5 giờ sáng tới 6 giờ chiều, hơn 100 người tù bị xiềng xích, hai người tù chung một xiềng sắt nặng 10 ký, 200 bao thóc chất đóng, 5 cối xay tất cả trong một căn hầm rộng chừng 150m2. Chế độ làm việc thì khắc nghiệt cộng thêm những trận đòn roi, cơm ăn không đủ no, chúng còn dã man hơn là dùng những mãnh vải bao bố tời che chắn ở phía trên không cho không khí và bụi bặm thoát ra ngoài để những người tù hít thở bụi bặm mà chết dần chết mòn vì bị bệnh phổi hoặc ít nhất cũng bị mù đi đôi mắt. Những người tù ở đây coi Hầm xay lúa là “ nhà tù trong nhà tù”, hay còn gọi là “ địa ngục trần gian” Pháp chọn những tên lưu manh loại anh chị làm cặp rằng để tiếp tay chúng đàn áp tù nhân. Đây là kiểu “dùng tù trị tù”.
Chế độ lao tù ở hầm xay lúa là như vậy, vô cùng khắc nghiệt, vô cùng tàn tạo và dã man với người tù. nhưng với ý chí và nghị lực kiên cường, cùng với tấm long yêu thương Bác Tôn đã chiến thắng kẻ thù. Bác luôn nêu cao tấm lòng yêu nước, và ý chí quật cường của người công nhân, luôn tin tưởng ở tương lai tươi sáng của dân tộc và giai cấp, luôn vui vẻ không bao giờ xao lãng công tác Cách mạng. Đó là đức tính chí khí cao cả, lập trường vững vàng, khiêm tốn giản dị... mà thế hệ trẻ sau này phải học hỏi noi gương từ Bác.


Hiện tại Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng đang đưa vào phục vụ khách tham quan phòng trưng bày chuyên đề “15 năm lưu đài Côn Đảo” trong phòng trưng bày chuyên đề này còn phục dựng lại “hầm xay lúa” để quý khách trãi nghiệm được không gian và chế độ lao động khổ sai trong hầm xay lúa, bên cạnh đó còn phục dựng lại chiếc cối xay lúa để quý khách có thể tự trãi nghiệm việc xay lúa. Mong một ngày không xa Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng được đón tiếp phục vụ khách gần xa đến tham quan trải nghiệm.