Nhà trưng bày thân thế sự nghiệp Chủ tịch Tôn Đức Thắng
Vào giữa thế kỷ thứ 19 TDP xâm lược VN sau khi chúng chiếm xong các tỉnh miền Đông Pháp lại vượt sông đánh chiếm tiếp các tỉnh miền Tây bộ (ảnh).Trong đó có tỉnh AG. Nước mất nhà tan không riêng gì nhân dân AG mà nhân dân trong cả nước phải chịu cảnh sống lầm than khổ cực dưới 3 tầng áp bức bóc lột đó là TDP, vua quan phong kiến và bọn cường hào ác bá ở địa phương (ảnh công nhân và nông dân sống trước năm 1945).

Trong lúc đó có 1 số nhà yêu nước như:Quản cơ Trần văn Thành, Trương Định, Nguyễn Trung Trực…đã anh dũng đứng lên dựng cờ khởi nghĩa chống lại TD Pháp và tay sai nhưng tất cả đều bị thất bại vì không có đường lối và chính sách đúng đắn. Cũng trong bối cảnh lịch sử đó vào ngày 20/08/1888, BácTôn được sinh ra tại Cù lao ông Hổ, hiện nay là ấp Mỹ An 2, xã Mỹ Hòa Hưng TP.LX tỉnh AG. Hai cụ thân sinh của Bác là cụ ông Tôn văn Đề và cụ bà Nguyễn Thị Dị .
Ông bà sinh con trai đầu lòng nên rất mực thương yêu. Lên 6 tuổi cha mẹ đưa Bác sang quê ngoại ở vùng Cái Sơn - Long Xuyên để học chữ Nho và chữ Quốc Ngữ, Bác học chữ nho với cụ Nguyễn Thượng Khách và học chữ Quốc Ngữ ở trường Tiểu học Long xuyên (nay là trường tiểu học Nguyễn Du TPLX). Thời thơ ấu Bác vốn thông minh và chịu khó học hỏi nên Bác đã tự mình tìm vải khâu đóng đôi hài hàm ếch vừa đẹp và bền gởi về quê tặng em trai thứ tư của Bác là Bác Tôn Đức Nhung . Bác Nhung đã trân trọng và gìn giữ đôi hài cho đến ngày hôm nay (Chỉ đôi giày) .
Năm 1906 Bác tốt nghiệp tiểu học và bước vào tuổi 18 (ảnh Bác chụp năm 18 tuổi tại LX) . Lúc này người thanh niên của mảnh đất cù lao quyết định rời quê hương lên SG học nghề làm thợ.
Vừa đặt chân đến đất SG Bác vào học ở trường Bá Nghệ SG(nay là trường Kỹ Thuật Cao Thắng) và làm thợ ở xưởng Ba Son. Lịch sử còn tìm lại được những tài liệu quý về Bác như danh sách học sinh của trường Bá Nghệ SG Bác là người đứng đầu danh sách và đạt điểm số cao nhất, cùng với hiện vật Rương gỗ Bác đựng đồ cá nhân trong thời gian Bác đi học .
Năm 1916 Bác quyết định rời Việt Nam sang Pháp với ước mong học hỏi được nhiều điều hay để sau này trở về nước đấu tranh có kết quả hơn và cũng trong năm này Bác bị động viên vào hải quân Pháp làm việc tại quân cảng Toulon miền nam nước Pháp (bức ảnh Bác chụp chung với các bạn thợ tại quân cảng Toulong, người mặc đồ màu trắng là Bác).
Tháng 10/1916 do Bác là một thợ máy giỏi nên Pháp đã điều Bác xuống làm thợ máy trên chiến hạm (mô hình chiến hạm của hạm đội Pháp).
Năm 1919 chính phủ Pháp điều 5 chiến hạm trong đó có chiến hạm vào Biển Đen đánh phá nước Nga Xô Viết trẻ tuổi . Hay tin này Bác vận động anh em binh lính Pháp phản chiến cuộc tiến công. Đúng 8h sáng ngày 20/04/1919 cuộc phản chiến nổ ra và Bác được giao trọng trách là kéo cao lá Cờ đỏ lên cột kỳ đài của chiến hạm để chào mừng cuộc cách mạng tháng mười Nga vĩ đại. Qua sự kiện này Bác tên tuổi Bác đã đi vào lịch sử, đồng thời Bác cũng bị chính phủ Pháp trục xuất về nước năm 1920 .
Về đến SG Bác tiếp tục làm thợ và Bác đã lập gia đình.Vợ Bác - bà Đoàn Thị Giàu tự là Nguyễn Thị Kim Oanh quê Bác ở xã Vĩnh Kim, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Bác có 3 người con (2 gái và 1 trai) thật không may người con trai chưa đầy 4 tuổi do bệnh nên đã qua đời sớm, còn lại 2 người con gái là Tôn thị Hạnh và Tôn thị Nghiêm. Bác có tất cả 5 cháu ngoại hiện nay sinh sống và công tác tại HN .
Từ năm 1921 đến 1927 Bác thành lập Công Hội Bí Mật SG-CL do Bác làm hội trưởng . Dưới sự lãnh đạo của Bác công hội không bao lâu đã lan rộng ra khắp nơi như: Nhà Đèn Chợ Quán , Hãng rượu Bình Tây, cảng SG, xưởng Archenal, xưởng Ba Son .
Trong đó đặc biệt nhất có cuộc bãi công của công nhân xưởng máy Ba Son vào tháng 8/1925 bãi công không chịu sửa chiến hạm Misơlê mà TDP dùng chiến hạm này để đàn áp cách mạng Trung Quốc. Cuối cùng, cuộc đấu tranh giành quyền lợi này mang nhiều thắng lợi nhưng thực chất là cuộc đấu tranh chính trị . Từ đó nó đã đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp công nhân VN từ tự phát sang tự giác.
Trong khoảng thời gian từ năm 1925 – 1927 Bác đã tìm đọc được một số sách báo như Đường Kách mệnh do Bác Hồ viết. Đến đầu năm 1927 Bác bắt liên lạc được với tổ chức cách mạng của Bác Hồ thông qua Đ/c Phan Trọng Bình, Bác đã cùng đ/c Bình thành lập tổ chức VNTNCMĐCH tại Đình Bình Đông . Bác là ủy viên BCH chi bộ SGCL.
Lúc này Bác và gia đình sinh sống tại căn nhà số 487 đường Hai Bà Trưng, TPHCM. Tại đây Bác tích cực tham gia chuẩn bị việc thành lập ĐCSVN. Nhưng Đảng chưa ra đời thì 7/1929 Bác bị TDP bắt tại SG sau khi xảy ra vụ án tại đường Barbie (vụ án được đăng trên báo Thần chung và báo Đuốc nhà nam). Sau một năm chúng giam cầm Bác ở khám lớn SG đến tháng 7/1930 tòa án Đại hình SG đưa Bác ra tòa xét xử và chúng đã tuyên án Bác 20 năm tù khổ sai sau đó lưu đày Bác ra Côn Đảo (Người tù mang áo số 2 là Bác ) .
Ra tới Côn Đảo Bác bị giam giữ như những người tù khổ sai lúc bấy giờ và chúng cho Bác là phần tử nguy hiểm nên chúng giam giữ Bác ở nhiều nơi như Khám chỉ tồn banh 1, Khám 6 banh 1, Xà liêm số 15 banh 1. Đặc biệt hơn có những năm chúng đã giam Bác ở hầm xay lúa . Hầm xay lúa như là một địa ngục của địa ngục ở trần gian mà chúng dùng để đày ải những nhà cách mạng yêu nước. Không gian làm việc chật chội hôi hám, chế độ làm việc khắc nghiệt, đánh đập người tù dã man. Chúng còn dã man hơn là dùng những mãnh vải bao bố tời che chắn không khí không cho không khí và bụi bặm thoát ra ngoài để những người tù hít thở bụi bặm mà chết dần chết mòn vì bị bệnh phổi hoặc cũng bị mù đi đôi mắt . Nhưng với chế độ khắc nghiệt , những trận tra tấn dã man của TDP cũng không làm lay chuyển ý chí tiến công của Bác . Đồng thời Bác đã bắt liên lạc với các banh khác để thành lập chi ủy đầu tiên tại Côn Đảo. Bác là Bí thư chi ủy (Bảng). Một số hình ảnh cảnh tra tấn tù nhân dã man ở Côn Đảo lúc bấy giờ.
Sa bàn toàn cảnh nhà tù Côn Đảo, năm 1945 Cách mạng tháng 8 thành công chính phủ đưa đoàn tàu ra Côn Đảo đón Bác và các đồng chí tù chính trị khác về đất liền . Bác đã tự mình sửa lại Ca nô để trở lại đất liền . Ca nô cặp bến đầu tiên tại cầu sắt Tân Thạnh, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng .Trường Lasantaber là nơi đón tiếp các đ/c từ Côn Đảo về đất liền trong đó có Bác.Nằm trên bộ ván của trường trung học Ta_be ở Sóc Trăng Bác mới co dịp nhớ lại những ngày qua. Nhớ về gia đình, quê hương và vợ con mà 17 năm qua trong cuộc sống căng thẳng của nhà tù Bác chưa bao giờ nghĩ tới. Bác nhớ lại gần 17 năm chung sống với vợ con. Vợ chồng, cha con chưa có 1 ngày sung sướng nghĩ thương vợ con quá! Mẹ nó còn trẻ, 2 con còn nhỏ không biết sống ra sao? Bất giác, Bác nhớ lại những ngày mới ra côn đảo, nghĩ mình đã khổ không nên bắt vợ con khổ theo nên Bác đã viết thư cho vợ khuyên đi lấy chồng khác. Ít lâu sau Bác nhận được thư, thư viết rằng:” Anh Tôn Đứng Thắng thân mến, xin báo để anh biết em đã đi lấy chồng. Chồng của em là Tôn Đức Thắng, người ở Long Xuyên.Vợ chồng em đã có với nhau ba con: hai gái, một trai. Đứa con trai chẳng may sớm qua đời.Em trọn đời sống cùng chồng em, mặc dù anh ấy đang phải tù đày nơi hải đảo xa xôi”. Đọc xong thư Bác sung sướng đến nổi cứ áp chặt bức thư vào ngực. Ôi! Một người con gái đã ôm ấp hình ảnh người yêu chờ đợi 4 năm khi Bác Tôn còn ở Pháp. Cũng người con gái đó quyết nuôi con chờ chồng 20 năm lưu đày nơi hải đảo.
Bác trở về đất liền đúng lúc tiếng súng kháng Pháp nổ ra khắp Nam Bộ Bác được giao nhiệm vụ chỉ đạo hoạt động tại ấp Mỹ An Hưng B, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp (Bia lưu niệm). Trên đường về căn cứ hoạt động Bác tranh thủ ít thời gian trở về thăm nhà (Bức tranh minh họa toàn cảnh Bác về thăm quê năm 1945) . Lịch sử về thăm quê Bác nói: “Tôi đi biệt sang các nước Châu Âu rồi bị tù lâu năm, được về quê ta thấy bà con gia đình là mừng là sung sướng lắm rồi. Tôi phải đi ngay cùng anh em phái đoàn ra bắc để làm việc với cụ Hồ, việc nước đang gấp”. Thế rồi hôm sau Bác quỳ bên chân mẹ nói lời từ giã tạm biệt sớm làng rồi Bác lại ra đi.
Tháng 1/1946 tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước VNDCCH Bác đã được nhân dân SGCL bầu làm đại biểu của mình tại Quốc hội. Sau đó Bác rời Nam Bộ ra HN lần đầu tiên Bác Hồ
,Bác Tôn gặp nhau trong bồi hồi xúc động. Bác sống và làm việc với Bác Hồ tại chiến khu Việt Bắc (một số hình ảnh Bác chụp tại chiến khu Việt Bắc).
Trong những năm tháng kháng chiến tại chiến Khu Việt Bắc Bác được trao nhiều trọng trách như: Bộ nội vụ, Chủ tịch Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc, Chủ tịch UBTWMT Liên Việt, Trưởng ban thường trực Quốc hội ..v.v….. Bác còn cùng với Bác Hồ tham gia nhiề Đại hội quan trọng khác như: Tổng Liên đoàn Lao động 1949; Mặt trận Việt Minh Liên Việt; Đại hội Đảng lần thứ 2 năm 1951; Việt Minh Liên Việt, Việt – Miên – Lào (Ảnh ). Ngôi nhà sàn của Bác ở chiến khu Việt Bắc .
Dù trong chiến tranh đầy gian khổ hy sinh Bác vẩn không quên thương nhớ mẹ già và các em, từ chiến khu Việt Bắc Bác đã viết thư gửi về Long Xuyên thăm mẹ, trong thư bác viết: “ kính thưa mẹ! từ nơi xa con kính gử thư này về thăm mẹ. Con rất đỗi buồn lo không biết mẹ còn sống với con cháu không? Mẹ đã lớn tuổi rồi. Chẳng may mẹ có bề nào mà chẳng thấy mặt con, và con không thọ được tang cho phải đạo làm con, thì đao đớn biết dường nào. Giặc còn giầy xéo quê hương, con bận lo việc nước chưa tròn, chữ trung chưa trọn, chữ hiếu chưa xong. Xin mẹ hiểu lòng con, tha lỗi cho con…”Bác đã chụp một bức ảnh gởi về gia đình phía sau bức ảnh Bác ghi “Kính biếu mẹ già và các em , ngày 09/04/1951”. Nhưng cảm động thay mẹ Bác mất năm 1947 do Bác ở xa nên không được tin.
Sau 9 năm kháng chiến, một nữa đất nước hoàn toàn giải phóng Bác Hồ, Bác Tôn cùng các đồng chí trong trung ương Đảng trở về Thủ đô mừng tết độc lập đầu tiên tại Hà Nội năm 1955 .
Tủ trưng bày một số hiện vật trong gia đình : trong đó có chiếc cối xay tiêu, nhân dịp bác đi nhận giải thưởng hòa bình quốc tế Lê Nin Bác đã mua về tặng Bác gái vì lúc sinh thời bác Tôn thích nhất là món cá rô kho tộ, bỏ thật nhiều tiêu, chiều nào Bác gái cũng đem tiêu bỏ vào chén đâm văn ra ngoài. Mắt bác gái lại kém nên cứ mò mẫm tìm từng hột mà bỏ vào. Bác Tôn nhớ lại tình cảm của vợ dành cho mình nên đã mua một chiếc cối xay tiêu về tặng vợ. Còn đây là chiếc khăn do các em thiếu nhi Liên Xô thêu tặng Bác mang 2 chữ “Hòa bình”.
Với những đóng góp to lớn cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, giữa năm 1958 Bác được Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương Sao vàng là Huân chương cao qúy nhất của Nhà nước ta, Bác Hồ đã tự tay gắn Huân chương cho Bác và Bác nói “Thay mặt Nhân dân và Chính phủ tôi trân trọng trao tặng đ/c Tôn Đức Thắng Huân chương Sao vàng là Huân chương cao nhất của nước VNDCCH mà đ/c TĐT là người đầu tiên và người rất xứng đáng được nhận huân chương ấy .” .
Tháng 07/1960 với uy tín và sự tín nhiệm của nhân dân Bác được bầu làm Phó Chủ tịch nước VNDCCH (ảnh Bác Hồ bắt tay chúc mừng Bác). Dù bộn bề công việc nước nhưng Bác vẫn không quên chăm sóc thiếu niên tiền phong vì đây là lực lượng kế thừa sự nghiệp đất nước mai sau.
Bộ đồ đại cán, đôi giầy và quần áo của Bác được nhà nước may tặng. Riêng đôi giầy này do Trung đoàn Bảo vệ 66 tặng Bác, trong quá trình mang có phần hơi bị chật. Bác vốn là người giản dị và tiết kiệm nên đã tự tay khoét 2 lỗ bên hông và phía trước cho đỡ đau chân và tiếp tục sử dụng.
Đây là một số hình ảnh Bác Hồ và Bác Tôn tham dự các Đại hội như: Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua chống Mỹ cứu nước 12/1966.
Ngày 2-9-1969, Bác Hồ kính yêu qua đời. Quốc hội nhất trí bầu Bác làm Chủ tịch nước của nước VNDCCH vào ngày 23-9-1969. Bác Tôn đi thăm các anh em công nhân, bộ đôi hải quân, bộ đội không quân.
Trong khoảng thời gian này đất nước ta chia làm hai miền miền Bắc và miền . Dù Bác ở miền Bắc nhưng tư tưởng Bác luôn hướng về miền Nam được thể hiện qua các lần đón tiếp đồng chí Trịnh Đình Thảo, đồng chí Nguyễn Hữu Thọ từ miền Nam ra miền Bắc làm việc.
Năm 1964 Bác Tôn nói “Tôi muốn được với đồng bào Miền Nam rằng từng giờ từng phút tôi luôn nghỉ đến Miền Nam nơi chôn nhau cắt rốn, đang bị đế quốc Mỹ và bọn tay sai tàn phá, nhớ đến đồng bào miền Nam ruột thịt đã chịu bao đau thương tan tóc, đang chiến đấu anh hùng chống bọn cướp nước, hại dân vô cùng hung ác. Tôi muốn được sát cánh với đồng bào trong cuộc đấu tranh, cùng đồng bào chia sẽ những gian khổ hy sinh để giải phóng quê hương yêu dấu”.
Để đáp lại tấm chân tình của Bác quân dân giải phóng miền Đông bộ đã làm cái gạt tàn thuốc bằng mảnh xác máy bay Mỹ bị bắn rơi gửi tặng Bác năm 1968. Trong năm này vào ngày 20/8 tại Hà Nội có làm lễ mừng thọ Bác được 80 tuổi, trong buổi lễ này Bác Hồ có đến chúc thọ cho Bác Tôn và đã tặng Bác hai câu thơ:
“ Càng già chí khí càng dai
Chống Mỹ cứu nước ít ai hơn già”
Sau nhiều năm kháng chiến hy sinh và gian khổ chiến thắng lịch sử ngày 30/4/1975 đã mở ra một kỷ nguyên mới đó là đất nước được hoàn toàn giải phóng. Bác đã được trở về miền yêu dấu của mình. Sau ngày vui đó Bác đi thăm khắp nơi: Bác thăm các em thiếu niên Quân khu 9, gia đình liệt sĩ ở Hóc Môn, các chiến sĩ địa phương Long Châu Hà, Bác tiếp các phụ nữ miền Nam ra Hà Nội dự lễ khánh thành lăng của Bác Hồ.
Hiện vật: Điện thoại đặt trong phòng làm việc của Bác cùng với kính đeo mắt.
Đồng thời Bác đã trở lại thăm xưởng Ba son nơi đã ghi dấu một thời thanh niên sôi nổi của mình.
Sau lần về miền nam Bác trở về thăm quê nhà vào tháng 10/1975. Đây là ảnh Bác Tôn gặp lại người em trai thứ tư của mình là Bác Tôn Đức Nhung hai anh em gặp lại nhau vui mừng xúc động sau 30 năm dài xa cách. 1 năm sau đó, năm 1976 Bác đến bệnh viện thăm người em gái Út, bà Tôn Thị Én.
Ngày 3/7/1976 kỳ hợp Quốc Hội đầu tiên khóa 6 đã bầu Bác làm Chủ tịch nước đầu tiên của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt . Đây là chân dung của Bác (ảnh Bác tiếp đại sứ quán Liên Xô, Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng mừng thọ Bác 90 tuổi)
Bác hưởng hòa bình chưa được bao lâu giữa năm 1978 sức khỏe Bác có phần suy giảm. Gia đình thân quyến đưa Bác từ nhà đến Bệnh viện, đồng chí Trường Chinh thăm Bác tại viện quân y 108. Đây là bức ảnh Bác đã chụp trước khi mất 7 ngày 23/3/1980. Lúc này Đảng và Nhà nước đã tập trung mọi phương tiện để chăm sóc và chữa trị cho Bác nhưng vì tuổi cao sức yếu nên hồi 6h35’ ngày 30/3/1980 Bác trút hơi thở cuối cùng và hưởng thọ 92 tuổi.
Đây là bảng thông cáo đặc biệt đưa tin Bác từ trần. Toàn đảng, toàn quân, toàn dân vô cùng thương tiếc Bác Tôn. Trung ương Đảng quyết định tổ chức Quốc tang với nghi thức trọng thể diễn ra trong 5 ngày từ 1 đến 5/4/1980 và lễ truy điệu của Bác tổ chức khắp nơi như Sài Gòn, tỉnh An Giang đặc biệt hơn là xã Mỹ Hòa Hưng nơi Bác đã sinh thành. Lễ an táng được tổ chức trọng thể tại nghĩa trang Mai Dịch Hà Nội.
Cuộc đời của Bác trong sáng và giản dị được thể hiện qua chiếc xe đạp này. Bác dùng để đi thăm hỏi nông dân, tập thể dục buổi sáng và thỉnh thoảng cũng có chạy đi làm việc.
Đây là mô hình Chùa Một Cột tự tay Bác làm trước ngôi nhà số 35 trần phú Hà Nội. Bộ đồ nghề Bác dùng để sữa chữa xe đạp và các vật dụng trong gia đình, máy quay phim, cuộn băng...Phía trên là ảnh đoàn tụ Bác Tôn cùng Bác Gái và các cháu chụp tại Hà Nội.
Nhắc tới Bác Tôn cũng không thể không nhắc đến Bác Gái, Bác là người phụ nữ đảm đang, tận tụy suốt đời chăm sóc con cái và là người luôn ủng hộ tiến bước con đường cách mạng của Bác. Đến 1974 sức khỏe của Bác gái có phần suy giảm, Bác Tôn đưa Bác gái ra xe đi bệnh viện, và đến ngày 25/5/1974 Bác gái đã trút hơi thở cuối cùng, bác thọ 78 tuổi. Bác gái chôn tại nghĩa trang Văn Điển – Hà Nội. Sau khi đưa Bác gái người vợ thương yêu, người bạn đường và cũng là người đồng chí suốt đời thủy chung với Bác về nơi an nghĩ cuối cùng, khi về nhà Bác tâm sự với các con:” Khi tao nghe thấy hòn đất ném xuống hòm,tao muốn nhảy xuống mà ôm lấy má tụi bây”. Cứ đến ngày 25 hằng tháng, Bác lại ra viếng mộ Bác gái.
Đây là mô hình nhà số 35 Trần Phú – Ba Đình - Hà Nội. Trước kia từ Sài gòn Bác ra Hà Nội Bác sống gian nhà phía trước này, sau một thời gian hoạt động tuổi Bác Tôn đã cao nên ở gian nhà phía sau.Đây là mô hình tái tạo lại gian nhà phía sau. Bên trong là một bàn làm việc và bàn tiếp khách của Bác rất là thô sơ và giản dị.
Bộ đồ bộ đội, nón nỉ và vali của Bác vẫn lưu giữ đến ngày hôm nay.
Mặc dù Bác đã đi xa nhưng hằng năm trên quê hương của Người vẫn thường xuyên đón tiếp các đồng chí từ TW đến địa phương về thăm quê và dâng hương cho Bác như: 1985 đồng chí Trường Chinh về thăm quê Bác, đồng chí đang nói chuyện thân mật và hỏi thăm sức khỏe vợ chồng Bác Nhung em trai thứ tư của Bác Tôn; đ/c Phạm Văn Đồng, đ/c Võ Chí Công, Đoàn Khuê, Trương Mỹ Hoa... Bên cạnh đó, khu lưu niệm cũng rất vinh dự được đón tiếp các bạn bè trên thế giới như Đoàn lãnh sự quán 6 nước, Đoàn cán bộ cao cấp Lào và Đoàn làm phim Liên Xô về làm tư liệu về Bác.
Hằng năm cứ đến ngày 20-8 tại Khu Lưu niêm Bác Tôn thường xuyên tổ chức các hoạt động thiết thực như văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, các trò chơi dân gian để chào mừng ngày sinh của Bác. Khu lưu niệm cũng không ngừng trùng tu nâng cấp ngày một khang trang đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách tham quan.
Vừa qua nhân kỷ niêm 110 năm ngày sinh của Bác, nhân dân An Giang có đề tặng Bác 2 câu đối đặt giữa nhà trưng bày: “Tựa lưng Bảy Núi uống nước Cửu Long Mỹ Hòa Hưng ngời danh xứ sở. Khơi lửa Ba Son, kéo cờ Hắc Hải Tôn Đức Thắng rạng tiếng non sông”.
Vào giữa thế kỷ thứ 19 TDP xâm lược VN sau khi chúng chiếm xong các tỉnh miền Đông Pháp lại vượt sông đánh chiếm tiếp các tỉnh miền Tây Nam bộ (ảnh).Trong đó có tỉnh AG. Nước mất nhà tan không riêng gì nhân dân AG mà nhân dân trong cả nước phải chịu cảnh sống lầm than khổ cực dưới 3 tầng áp bức bóc lột đó là TDP, vua quan phong kiến và bọn cường hào ác bá ở địa phương (ảnh công nhân và nông dân sống trước năm 1945).
Trong lúc đó có 1 số nhà yêu nước như:Quản cơ Trần văn Thành, Trương Định, Nguyễn Trung Trực…đã anh dũng đứng lên dựng cờ khởi nghĩa chống lại TD Pháp và tay sai nhưng tất cả đều bị thất bại vì không có đường lối và chính sách đúng đắn. Cũng trong bối cảnh lịch sử đó vào ngày 20/08/1888, BácTôn được sinh ra tại Cù lao ông Hổ, hiện nay là ấp Mỹ An 2, xã Mỹ Hòa Hưng TP.LX tỉnh AG. Hai cụ thân sinh của Bác là cụ ông Tôn văn Đề và cụ bà Nguyễn Thị Dị .
Ông bà sinh con trai đầu lòng nên rất mực thương yêu. Lên 6 tuổi cha mẹ đưa Bác sang quê ngoại ở vùng Cái Sơn - Long Xuyên để học chữ Nho và chữ Quốc Ngữ, Bác học chữ nho với cụ Nguyễn Thượng Khách và học chữ Quốc Ngữ ở trường Tiểu học Long xuyên (nay là trường tiểu học Nguyễn Du TPLX). Thời thơ ấu Bác vốn thông minh và chịu khó học hỏi nên Bác đã tự mình tìm vải khâu đóng đôi hài hàm ếch vừa đẹp và bền gởi về quê tặng em trai thứ tư của Bác là Bác Tôn Đức Nhung . Bác Nhung đã trân trọng và gìn giữ đôi hài cho đến ngày hôm nay (Chỉ đôi giày) .
Năm 1906 Bác tốt nghiệp tiểu học và bước vào tuổi 18 (ảnh Bác chụp năm 18 tuổi tại LX) . Lúc này người thanh niên của mảnh đất cù lao quyết định rời quê hương lên SG học nghề làm thợ.
Vừa đặt chân đến đất SG Bác vào học ở trường Bá Nghệ SG(nay là trường Kỹ Thuật Cao Thắng) và làm thợ ở xưởng Ba Son. Lịch sử còn tìm lại được những tài liệu quý về Bác như danh sách học sinh của trường Bá Nghệ SG Bác là người đứng đầu danh sách và đạt điểm số cao nhất, cùng với hiện vật Rương gỗ Bác đựng đồ cá nhân trong thời gian Bác đi học .
Năm 1916 Bác quyết định rời Việt Nam sang Pháp với ước mong học hỏi được nhiều điều hay để sau này trở về nước đấu tranh có kết quả hơn và cũng trong năm này Bác bị động viên vào hải quân Pháp làm việc tại quân cảng Toulon miền nam nước Pháp (bức ảnh Bác chụp chung với các bạn thợ tại quân cảng Toulong, người mặc đồ màu trắng là Bác).
Tháng 10/1916 do Bác là một thợ máy giỏi nên Pháp đã điều Bác xuống làm thợ máy trên chiến hạm France (mô hình chiến hạm France của hạm đội Pháp).
Năm 1919 chính phủ Pháp điều 5 chiến hạm trong đó có chiến hạm France vào Biển Đen đánh phá nước Nga Xô Viết trẻ tuổi . Hay tin này Bác vận động anh em binh lính Pháp phản chiến cuộc tiến công. Đúng 8h sáng ngày 20/04/1919 cuộc phản chiến nổ ra và Bác được giao trọng trách là kéo cao lá Cờ đỏ lên cột kỳ đài của chiến hạm để chào mừng cuộc cách mạng tháng mười Nga vĩ đại. Qua sự kiện này Bác tên tuổi Bác đã đi vào lịch sử, đồng thời Bác cũng bị chính phủ Pháp trục xuất về nước năm 1920 .
Về đến SG Bác tiếp tục làm thợ và Bác đã lập gia đình.Vợ Bác - bà Đoàn Thị Giàu tự là Nguyễn Thị Kim Oanh quê Bác ở xã Vĩnh Kim, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Bác có 3 người con (2 gái và 1 trai) thật không may người con trai chưa đầy 4 tuổi do bệnh nên đã qua đời sớm, còn lại 2 người con gái là Tôn thị Hạnh và Tôn thị Nghiêm. Bác có tất cả 5 cháu ngoại hiện nay sinh sống và công tác tại HN .
Từ năm 1921 đến 1927 Bác thành lập Công Hội Bí Mật SG-CL do Bác làm hội trưởng . Dưới sự lãnh đạo của Bác công hội không bao lâu đã lan rộng ra khắp nơi như: Nhà Đèn Chợ Quán , Hãng rượu Bình Tây, cảng SG, xưởng Archenal, xưởng Ba Son .
Trong đó đặc biệt nhất có cuộc bãi công của công nhân xưởng máy Ba Son vào tháng 8/1925 bãi công không chịu sửa chiến hạm Misơlê mà TDP dùng chiến hạm này để đàn áp cách mạng Trung Quốc. Cuối cùng, cuộc đấu tranh giành quyền lợi này mang nhiều thắng lợi nhưng thực chất là cuộc đấu tranh chính trị . Từ đó nó đã đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp công nhân VN từ tự phát sang tự giác.
Trong khoảng thời gian từ năm 1925 – 1927 Bác đã tìm đọc được một số sách báo như Đường Kách mệnh do Bác Hồ viết. Đến đầu năm 1927 Bác bắt liên lạc được với tổ chức cách mạng của Bác Hồ thông qua Đ/c Phan Trọng Bình, Bác đã cùng đ/c Bình thành lập tổ chức VNTNCMĐCH tại Đình Bình Đông . Bác là ủy viên BCH chi bộ SGCL.
Lúc này Bác và gia đình sinh sống tại căn nhà số 487 đường Hai Bà Trưng, TPHCM. Tại đây Bác tích cực tham gia chuẩn bị việc thành lập ĐCSVN. Nhưng Đảng chưa ra đời thì 7/1929 Bác bị TDP bắt tại SG sau khi xảy ra vụ án tại đường Barbie (vụ án được đăng trên báo Thần chung và báo Đuốc nhà nam). Sau một năm chúng giam cầm Bác ở khám lớn SG đến tháng 7/1930 tòa án Đại hình SG đưa Bác ra tòa xét xử và chúng đã tuyên án Bác 20 năm tù khổ sai sau đó lưu đày Bác ra Côn Đảo (Người tù mang áo số 2 là Bác ) .
Ra tới Côn Đảo Bác bị giam giữ như những người tù khổ sai lúc bấy giờ và chúng cho Bác là phần tử nguy hiểm nên chúng giam giữ Bác ở nhiều nơi như Khám chỉ tồn banh 1, Khám 6 banh 1, Xà liêm số 15 banh 1. Đặc biệt hơn có những năm chúng đã giam Bác ở hầm xay lúa . Hầm xay lúa như là một địa ngục của địa ngục ở trần gian mà chúng dùng để đày ải những nhà cách mạng yêu nước. Không gian làm việc chật chội hôi hám, chế độ làm việc khắc nghiệt, đánh đập người tù dã man. Chúng còn dã man hơn là dùng những mãnh vải bao bố tời che chắn không khí không cho không khí và bụi bặm thoát ra ngoài để những người tù hít thở bụi bặm mà chết dần chết mòn vì bị bệnh phổi hoặc cũng bị mù đi đôi mắt . Nhưng với chế độ khắc nghiệt , những trận tra tấn dã man của TDP cũng không làm lay chuyển ý chí tiến công của Bác . Đồng thời Bác đã bắt liên lạc với các banh khác để thành lập chi ủy đầu tiên tại Côn Đảo. Bác là Bí thư chi ủy (Bảng). Một số hình ảnh cảnh tra tấn tù nhân dã man ở Côn Đảo lúc bấy giờ.
Sa bàn toàn cảnh nhà tù Côn Đảo, năm 1945 Cách mạng tháng 8 thành công chính phủ đưa đoàn tàu ra Côn Đảo đón Bác và các đồng chí tù chính trị khác về đất liền . Bác đã tự mình sửa lại Ca nô để trở lại đất liền . Ca nô cặp bến đầu tiên tại cầu sắt Tân Thạnh, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng .Trường Lasantaber là nơi đón tiếp các đ/c từ Côn Đảo về đất liền trong đó có Bác.Nằm trên bộ ván của trường trung học Ta_be ở Sóc Trăng Bác mới co dịp nhớ lại những ngày qua. Nhớ về gia đình, quê hương và vợ con mà 17 năm qua trong cuộc sống căng thẳng của nhà tù Bác chưa bao giờ nghĩ tới. Bác nhớ lại gần 17 năm chung sống với vợ con. Vợ chồng, cha con chưa có 1 ngày sung sướng nghĩ thương vợ con quá! Mẹ nó còn trẻ, 2 con còn nhỏ không biết sống ra sao? Bất giác, Bác nhớ lại những ngày mới ra côn đảo, nghĩ mình đã khổ không nên bắt vợ con khổ theo nên Bác đã viết thư cho vợ khuyên đi lấy chồng khác. Ít lâu sau Bác nhận được thư, thư viết rằng:”Anh Tôn Đứng Thắng thân mến, xin báo để anh biết em đã đi lấy chồng. Chồng của em là Tôn Đức Thắng, người ở Long Xuyên.Vợ chồng em đã có với nhau ba con: hai gái, một trai. Đứa con trai chẳng may sớm qua đời.Em trọn đời sống cùng chồng em, mặc dù anh ấy đang phải tù đày nơi hải đảo xa xôi”. Đọc xong thư Bác sung sướng đến nổi cứ áp chặt bức thư vào ngực. Ôi! Một người con gái đã ôm ấp hình ảnh người yêu chờ đợi 4 năm khi Bác Tôn còn ở Pháp. Cũng người con gái đó quyết nuôi con chờ chồng 20 năm lưu đày nơi hải đảo.
Bác trở về đất liền đúng lúc tiếng súng kháng Pháp nổ ra khắp Nam Bộ Bác được giao nhiệm vụ chỉ đạo hoạt động tại ấp Mỹ An Hưng B, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp (Bia lưu niệm). Trên đường về căn cứ hoạt động Bác tranh thủ ít thời gian trở về thăm nhà (Bức tranh minh họa toàn cảnh Bác về thăm quê năm 1945) . Lịch sử về thăm quê Bác nói: “Tôi đi biệt sang các nước Châu Âu rồi bị tù lâu năm, được về quê ta thấy bà con gia đình là mừng là sung sướng lắm rồi. Tôi phải đi ngay cùng anh em phái đoàn ra bắc để làm việc với cụ Hồ, việc nước đang gấp”. Thế rồi hôm sau Bác quỳ bên chân mẹ nói lời từ giã tạm biệt sớm làng rồi Bác lại ra đi.
Tháng 1/1946 tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước VNDCCH Bác đã được nhân dân SGCL bầu làm đại biểu của mình tại Quốc hội. Sau đó Bác rời Nam Bộ ra HN lần đầu tiên Bác Hồ
,Bác Tôn gặp nhau trong bồi hồi xúc động. Bác sống và làm việc với Bác Hồ tại chiến khu Việt Bắc (một số hình ảnh Bác chụp tại chiến khu Việt Bắc).
Trong những năm tháng kháng chiến tại chiến Khu Việt Bắc Bác được trao nhiều trọng trách như: Bộ nội vụ, Chủ tịch Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc, Chủ tịch UBTWMT Liên Việt, Trưởng ban thường trực Quốc hội ..v.v….. Bác còn cùng với Bác Hồ tham gia nhiề Đại hội quan trọng khác như: Tổng Liên đoàn Lao động 1949; Mặt trận Việt Minh Liên Việt; Đại hội Đảng lần thứ 2 năm 1951; Việt Minh Liên Việt, Việt – Miên – Lào (Ảnh ). Ngôi nhà sàn của Bác ở chiến khu Việt Bắc .
Dù trong chiến tranh đầy gian khổ hy sinh Bác vẩn không quên thương nhớ mẹ già và các em, từ chiến khu Việt Bắc Bác đã viết thư gửi về Long Xuyên thăm mẹ, trong thư bác viết: “ kính thưa mẹ! từ nơi xa con kính gử thư này về thăm mẹ. Con rất đỗi buồn lo không biết mẹ còn sống với con cháu không? Mẹ đã lớn tuổi rồi. Chẳng may mẹ có bề nào mà chẳng thấy mặt con, và con không thọ được tang cho phải đạo làm con, thì đao đớn biết dường nào. Giặc còn giầy xéo quê hương, con bận lo việc nước chưa tròn, chữ trung chưa trọn, chữ hiếu chưa xong. Xin mẹ hiểu lòng con, tha lỗi cho con…”Bác đã chụp một bức ảnh gởi về gia đình phía sau bức ảnh Bác ghi “Kính biếu mẹ già và các em , ngày 09/04/1951”. Nhưng cảm động thay mẹ Bác mất năm 1947 do Bác ở xa nên không được tin.
Sau 9 năm kháng chiến, một nữa đất nước hoàn toàn giải phóng Bác Hồ, Bác Tôn cùng các đồng chí trong trung ương Đảng trở về Thủ đô mừng tết độc lập đầu tiên tại Hà Nội năm 1955 .
Tủ trưng bày một số hiện vật trong gia đình : trong đó có chiếc cối xay tiêu, nhân dịp bác đi nhận giải thưởng hòa bình quốc tế Lê Nin Bác đã mua về tặng Bác gái vì lúc sinh thời bác Tôn thích nhất là món cá rô kho tộ, bỏ thật nhiều tiêu, chiều nào Bác gái cũng đem tiêu bỏ vào chén đâm văn ra ngoài. Mắt bác gái lại kém nên cứ mò mẫm tìm từng hột mà bỏ vào. Bác Tôn nhớ lại tình cảm của vợ dành cho mình nên đã mua một chiếc cối xay tiêu về tặng vợ. Còn đây là chiếc khăn do các em thiếu nhi Liên Xô thêu tặng Bác mang 2 chữ “Hòa bình”.
Với những đóng góp to lớn cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, giữa năm 1958 Bác được Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương Sao vàng là Huân chương cao qúy nhất của Nhà nước ta, Bác Hồ đã tự tay gắn Huân chương cho Bác và Bác nói “Thay mặt Nhân dân và Chính phủ tôi trân trọng trao tặng đ/c Tôn Đức Thắng Huân chương Sao vàng là Huân chương cao nhất của nước VNDCCH mà đ/c TĐT là người đầu tiên và người rất xứng đáng được nhận huân chương ấy .” .
Tháng 07/1960 với uy tín và sự tín nhiệm của nhân dân Bác được bầu làm Phó Chủ tịch nước VNDCCH (ảnh Bác Hồ bắt tay chúc mừng Bác). Dù bộn bề công việc nước nhưng Bác vẫn không quên chăm sóc thiếu niên tiền phong vì đây là lực lượng kế thừa sự nghiệp đất nước mai sau.
Bộ đồ đại cán, đôi giầy và quần áo của Bác được nhà nước may tặng. Riêng đôi giầy này do Trung đoàn Bảo vệ 66 tặng Bác, trong quá trình mang có phần hơi bị chật. Bác vốn là người giản dị và tiết kiệm nên đã tự tay khoét 2 lỗ bên hông và phía trước cho đỡ đau chân và tiếp tục sử dụng.
Đây là một số hình ảnh Bác Hồ và Bác Tôn tham dự các Đại hội như: Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua chống Mỹ cứu nước 12/1966.
Ngày 2-9-1969, Bác Hồ kính yêu qua đời. Quốc hội nhất trí bầu Bác làm Chủ tịch nước của nước VNDCCH vào ngày 23-9-1969. Bác Tôn đi thăm các anh em công nhân, bộ đôi hải quân, bộ đội không quân.
Trong khoảng thời gian này đất nước ta chia làm hai miền miền Bắc và miền Nam. Dù Bác ở miền Bắc nhưng tư tưởng Bác luôn hướng về miền Nam được thể hiện qua các lần đón tiếp đồng chí Trịnh Đình Thảo, đồng chí Nguyễn Hữu Thọ từ miền Nam ra miền Bắc làm việc.
Năm 1964 Bác Tôn nói “Tôi muốn được với đồng bào Miền Nam rằng từng giờ từng phút tôi luôn nghỉ đến Miền Nam nơi chôn nhau cắt rốn, đang bị đế quốc Mỹ và bọn tay sai tàn phá, nhớ đến đồng bào miền Nam ruột thịt đã chịu bao đau thương tan tóc, đang chiến đấu anh hùng chống bọn cướp nước, hại dân vô cùng hung ác. Tôi muốn được sát cánh với đồng bào trong cuộc đấu tranh, cùng đồng bào chia sẽ những gian khổ hy sinh để giải phóng quê hương yêu dấu”.
Để đáp lại tấm chân tình của Bác quân dân giải phóng miền Đông Nam bộ đã làm cái gạt tàn thuốc bằng mảnh xác máy bay Mỹ bị bắn rơi gửi tặng Bác năm 1968. Trong năm này vào ngày 20/8 tại Hà Nội có làm lễ mừng thọ Bác được 80 tuổi, trong buổi lễ này Bác Hồ có đến chúc thọ cho Bác Tôn và đã tặng Bác hai câu thơ:
“ Càng già chí khí càng dai
Chống Mỹ cứu nước ít ai hơn già”
Sau nhiều năm kháng chiến hy sinh và gian khổ chiến thắng lịch sử ngày 30/4/1975 đã mở ra một kỷ nguyên mới đó là đất nước được hoàn toàn giải phóng. Bác đã được trở về miền Nam yêu dấu của mình. Sau ngày vui đó Bác đi thăm khắp nơi: Bác thăm các em thiếu niên Quân khu 9, gia đình liệt sĩ ở Hóc Môn, các chiến sĩ địa phương Long Châu Hà, Bác tiếp các phụ nữ miền Nam ra Hà Nội dự lễ khánh thành lăng của Bác Hồ.
Hiện vật: Điện thoại đặt trong phòng làm việc của Bác cùng với kính đeo mắt.
Đồng thời Bác đã trở lại thăm xưởng Ba son nơi đã ghi dấu một thời thanh niên sôi nổi của mình.
Sau lần về miền nam Bác trở về thăm quê nhà vào tháng 10/1975. Đây là ảnh Bác Tôn gặp lại người em trai thứ tư của mình là Bác Tôn Đức Nhung hai anh em gặp lại nhau vui mừng xúc động sau 30 năm dài xa cách. 1 năm sau đó, năm 1976 Bác đến bệnh viện thăm người em gái Út, bà Tôn Thị Én.
Ngày 3/7/1976 kỳ hợp Quốc Hội đầu tiên khóa 6 đã bầu Bác làm Chủ tịch nước đầu tiên của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Đây là chân dung của Bác (ảnh Bác tiếp đại sứ quán Liên Xô, Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng mừng thọ Bác 90 tuổi)
Bác hưởng hòa bình chưa được bao lâu giữa năm 1978 sức khỏe Bác có phần suy giảm. Gia đình thân quyến đưa Bác từ nhà đến Bệnh viện, đồng chí Trường Chinh thăm Bác tại viện quân y 108. Đây là bức ảnh Bác đã chụp trước khi mất 7 ngày 23/3/1980. Lúc này Đảng và Nhà nước đã tập trung mọi phương tiện để chăm sóc và chữa trị cho Bác nhưng vì tuổi cao sức yếu nên hồi 6h35’ ngày 30/3/1980 Bác trút hơi thở cuối cùng và hưởng thọ 92 tuổi.
Đây là bảng thông cáo đặc biệt đưa tin Bác từ trần. Toàn đảng, toàn quân, toàn dân vô cùng thương tiếc Bác Tôn. Trung ương Đảng quyết định tổ chức Quốc tang với nghi thức trọng thể diễn ra trong 5 ngày từ 1 đến 5/4/1980 và lễ truy điệu của Bác tổ chức khắp nơi như Sài Gòn, tỉnh An Giang đặc biệt hơn là xã Mỹ Hòa Hưng nơi Bác đã sinh thành. Lễ an táng được tổ chức trọng thể tại nghĩa trang Mai Dịch Hà Nội.
Cuộc đời của Bác trong sáng và giản dị được thể hiện qua chiếc xe đạp này. Bác dùng để đi thăm hỏi nông dân, tập thể dục buổi sáng và thỉnh thoảng cũng có chạy đi làm việc.
Đây là mô hình Chùa Một Cột tự tay Bác làm trước ngôi nhà số 35 trần phú Hà Nội. Bộ đồ nghề Bác dùng để sữa chữa xe đạp và các vật dụng trong gia đình, máy quay phim, cuộn băng...Phía trên là ảnh đoàn tụ Bác Tôn cùng Bác Gái và các cháu chụp tại Hà Nội.
Nhắc tới Bác Tôn cũng không thể không nhắc đến Bác Gái, Bác là người phụ nữ đảm đang, tận tụy suốt đời chăm sóc con cái và là người luôn ủng hộ tiến bước con đường cách mạng của Bác. Đến 1974 sức khỏe của Bác gái có phần suy giảm, Bác Tôn đưa Bác gái ra xe đi bệnh viện, và đến ngày 25/5/1974 Bác gái đã trút hơi thở cuối cùng, bác thọ 78 tuổi. Bác gái chôn tại nghĩa trang Văn Điển – Hà Nội. Sau khi đưa Bác gái người vợ thương yêu, người bạn đường và cũng là người đồng chí suốt đời thủy chung với Bác về nơi an nghĩ cuối cùng, khi về nhà Bác tâm sự với các con:” Khi tao nghe thấy hòn đất ném xuống hòm,tao muốn nhảy xuống mà ôm lấy má tụi bây”. Cứ đến ngày 25 hằng tháng, Bác lại ra viếng mộ Bác gái.
Đây là mô hình nhà số 35 Trần Phú – Ba Đình - Hà Nội. Trước kia từ Sài gòn Bác ra Hà Nội Bác sống gian nhà phía trước này, sau một thời gian hoạt động tuổi Bác Tôn đã cao nên ở gian nhà phía sau.Đây là mô hình tái tạo lại gian nhà phía sau. Bên trong là một bàn làm việc và bàn tiếp khách của Bác rất là thô sơ và giản dị.
Bộ đồ bộ đội, nón nỉ và vali của Bác vẫn lưu giữ đến ngày hôm nay.
Mặc dù Bác đã đi xa nhưng hằng năm trên quê hương của Người vẫn thường xuyên đón tiếp các đồng chí từ TW đến địa phương về thăm quê và dâng hương cho Bác như: 1985 đồng chí Trường Chinh về thăm quê Bác, đồng chí đang nói chuyện thân mật và hỏi thăm sức khỏe vợ chồng Bác Nhung em trai thứ tư của Bác Tôn; đ/c Phạm Văn Đồng, đ/c Võ Chí Công, Đoàn Khuê, Trương Mỹ Hoa... Bên cạnh đó, khu lưu niệm cũng rất vinh dự được đón tiếp các bạn bè trên thế giới như Đoàn lãnh sự quán 6 nước, Đoàn cán bộ cao cấp Lào và Đoàn làm phim Liên Xô về làm tư liệu về Bác.
Hằng năm cứ đến ngày 20-8 tại Khu Lưu niêm Bác Tôn thường xuyên tổ chức các hoạt động thiết thực như văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, các trò chơi dân gian để chào mừng ngày sinh của Bác. Khu lưu niệm cũng không ngừng trùng tu nâng cấp ngày một khang trang đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách tham quan.
Vừa qua nhân kỷ niêm 110 năm ngày sinh của Bác, nhân dân An Giang có đề tặng Bác 2 câu đối đặt giữa nhà trưng bày: “Tựa lưng Bảy Núi uống nước Cửu Long Mỹ Hòa Hưng ngời danh xứ sở. Khơi lửa Ba Son, kéo cờ Hắc Hải Tôn Đức Thắng rạng tiếng non sông”.